Theo quan niệm của người xưa, có thể nhìn vào hình dáng để đoán biết phần nào tính cách, số mệnh một người. Điển hình là câu nói: “Đàn ông nhìn eo, đàn bà nhìn chân”.

Người xưa có câu rằng: “Sĩ vi tri kỷ giả tử , nữ vi duyệt kỷ giả dung”. Kẻ sĩ vì người thưởng thức mình mà chết, nữ tử vì người mình thích mà trang điểm. Cũng có một số từ ngữ sẽ dẫn đến sự mơ hồ, khiến nhiều người khó hiểu, điển hình như câu nói: “Đàn ông nhìn eo, đàn bà nhìn chân”. Theo cổ nhân, eo và chân chính là một ô cửa nội tâm, để từ đó có thể nhìn thấy bên trong nội lực của con người.

Những lời nói của người xưa thường được đúc kết từ những kinh nghiệm sống, những bài học rút ra trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế, dù câu từ đơn giản nhưng ẩn chứa bên trong là loạt triết lý sâu sắc. Giống như câu nói “Đàn ông nhìn eo, đàn bà nhìn chân” ở trên cũng vậy. Điều này được đúc rút theo quan niệm sống thời xưa. Vậy, tại sao người xưa lại khẳng định như thế?

2

“Đàn ông nhìn eo” nghĩa là gì?

Những câu nói triết lý của người xưa hầu hết đều xuất phát từ cuộc sống cũng như sự thăng hoa trong cuộc sống. Thời xưa, con người sống trong xã hội kinh tế tiểu nông, thu hoạch nông nghiệp cơ bản hầu hết phụ thuộc vào thời tiết. Đáng chú ý, sức lao động trong nông nghiệp chủ yếu là nam giới. Bên cạnh đó, lương thực ở nhà được thu hoạch chỉ duy nhất bằng cách “thắt lưng buộc bụng”. Đây chính là cuộc sống điển hình của người dân thời xưa.

Từ trước đến nay, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội vẫn luôn tồn tại. Người giàu thì càng giàu còn người nghèo thì không biết bao giờ mới chuyển mình được. Để đảm bảo cuộc sống, người nghèo phải làm việc cật lực, đặc biệt là vào mùa thu hoạch. Chỉ thu hoạch nhiều, họ mới có thể đứng lên được eo thon. Người xưa cho rằng, sự quý tộc có thể thể hiện bản sắc qua vòng eo nam giới. Theo đó, thắt lưng vàng, tím chính là biểu hiện của sự quyền quý. 

Bên cạnh đó, trong “Ngọc đai tân vịnh” có câu rằng: “yêu bạch ngọc chi hoàn”. Câu này ý nói rằng, vòng ngọc trắng ở thắt lưng. Thời cổ đại, giới quý tộc thường có thói quen đeo vòng ngọc ở quan eo. Đặc biệt, ở trong “Lễ Ký” cũng viết: “Cổ chi quân tử tất bội ngọc, quân tử vô cố, ngọc bất ly thân”. Câu này tạm dịch có thể hiểu là: “Bậc quân tử khi xưa ai cũng đeo ngọc, và đó là vật bất ly thân của họ”.

Ngoài ra còn có câu nói: “Quân tử bỉ đức như ngọc”. Người xưa đeo những đồ trang sức bằng ngọc quý ở thắt lưng không chỉ để khoe khoang của cải, cũng không chỉ để làm vật trang sức. Nguyên nhân bởi, người xưa quan niệm đức hạnh của bậc quân tử được so sánh ngang với ngọc quý. Các bậc quân tử từ xưa đến nay vẫn luôn so sánh phẩm chất tốt đẹp của mình như ngọc ngà. “Quân tử như ngọc”, bởi ngọc vừa ấm áp lại trơn bóng, sâu lắng được so sánh với chữ Nhân; sự tròn vẹn chặt chẽ, rắn chắc của ngọc được so sánh với Trí tuệ, ngọc có góc cạnh nhưng lại không khiến người khác tổn thương, được so sánh với chữ Nghĩa. 

Ngọc sau khi được chế tác thành một miếng ngọc bội trang sức nghiêng mình sẽ được so sánh với sự lễ phép. Khi nhẹ nhàng gõ vào miếng ngọc, dễ dàng nghe thấy được âm thanh trong trẻo du dương vô cùng êm tai, vang vọng đến tận cuối cùng rồi lại cao vút lên rồi dừng lại. Âm thanh này được so sánh với sự êm ái của âm nhạc, vừa không muốn phô trương những ưu điểm mà che giấu đi khuyết điểm, cũng không vì khuyết điểm mà những ưu điểm bị che mờ đi. Điều này được người xưa so sánh với sự trung thành của con người.

Chưa kể, ngọc còn mang vẻ rực rỡ lấp lánh, trước sau như một. Điều này được ví với chữ Tín của người quân tử, nói lời giữ lời, luôn đáng tin cậy. Ẩn sâu bên trong ngọc bội còn có khí sắc như trắng như hồng, được ví con như sự tương thông với những thứ tinh hoa của trời; vị trí cây cỏ xanh tốt nơi núi rừng sản sinh ra ngọc quý giống như sự tương thông chắt lọc những điều tinh túy nhất của đất.

Ngọc có nhiều phẩm chất tao nhã và đẹp đẽ đến thế. Vì vậy, người xưa – đặc biệt là người quân tử rất coi trọng ngọc. Ngọc chính là sự tượng trưng cho sắc đẹp, phẩm giá cũng như phẩm hạnh, hiền triết. Đàn ông đeo ngọc ở eo không chỉ biểu tượng cho sắc vóc, đây còn là lời khẳng định cho vị trí và phẩm hạnh của họ.

Cổ nhân còn có câu rằng “mặc hồng đai tím”. Cụ thể, vào thời nhà Đường, triều phục màu đỏ chính là y phục dành riêng cho những quan chức từ ngũ phẩm trở lên, còn y phục màu tím còn là y phục của các quan từ tam phẩm trở lên cũng như các bậc tam phẩm của tể tướng. Nhiều người được thăng quan tiến chức sẽ đeo ấn vàng hoặc ấn ngọc ở thắt lưng. Những trang sức này thể hiện cho cấp vị của họ. Do đó mà người xưa mới có câu nói rằng: “Đàn ông nhìn eo”.

Tại sao lại nói “Đàn bà nhìn chân”?

Nếu nhìn eo để đánh giá phẩm giá, địa vị của một người đàn ông thì vế sau lại là “Đàn bà nhìn chân”. Nhắc đến việc nhìn chân phụ nữ, chắc chắn nhiều người sẽ nghĩ ngay đến cụm từ “Kim liên tam thốn”. Câu này hiểu đơn giản là “gót sen ba tấc”, ý chỉ quan niệm của người xưa cho rằng, chân càng nhỏ thì lại càng khuê môn danh giá.

Tuy nhiên, vấn đề này vào mỗi thời kỳ lại có những điểm khác nhau. Cụ thể, phụ nữ thời Tống buộc chân, tương tự thế, cuối thời nhà Thanh và đầu thời Trung Hoa Dân Quốc, phụ nữ vẫn giữ nguyên thói quen buộc chân này.

Gót sen ba tấc là đặc trưng rất riêng của phụ nữ Trung Hoa thời phong kiến. Đây không chỉ là tượng trưng cho sự cao quý. Tục bó chân của phụ nữ còn ẩn chứa rất nhiều bí mật, đầu tiên phải kể đến nguồn gốc của phong tục này. Có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc của tục bó chân, tuy nhiên một trong những giả thuyết nổi tiếng nhất về xuất xứ của “gót sen ba tấc” phải kể đến thời Hán Thành Đế.

Được biết, Triệu Phi Yến là một cung phi của Hán Thành Đế thường dùng lụa quấn quanh bàn chân và nhảy múa. Bàn chân của bà rất nhỏ nên khi nhảy múa, đôi chân rất uyển chuyển, thân thể nhẹ nhàng như bay. Chính vì thế mà Hán Thành Đế ra lệnh cho các cung phi khác phải học theo. Từ đó, các cung phi phải dùng lụa bó bàn chân cho nhỏ lại. Tục “Gót sen ba tấc” cũng từ đó mà ra đời, lan rộng ra cả ngoài dân gian.

Người xưa cho rằng, phụ nữ là những người chăm lo mọi việc trong nhà. Cũng thời điểm đó, người ta căn cứ vào kích thước của bàn chân để phân chia đẹp xấu và sang hèn. Người xưa còn phân chia ra thành gót sen vàng, gót sen bạc và gót sen sắt. Còn nếu theo kích thước bàn chân, người ta sẽ chia thành ba tấc, bốn tấc và năm tấc. Quan trọng nhất chính là gót sen vàng, hay còn gọi là gót sen ba tấc mà mọi người thường hay nhắc đến.

Dù sau này có nhiều giả thuyết khác được truyền ra nhưng nói chung, vẫn có một điểm không hề thay đổi đó là, gót sen ba tấc chính là khởi đầu từ giới thượng lưu từ thời phong kiến cổ đại Trung Hoa. Sau đó, tục này dần dần trở thành tập tục chung của phụ nữ trong mọi tầng lớp thời xưa. Cũng vì thế, những người phụ nữ không bó chân thời phong kiến bị đánh giá trở nên thấp kém, thiếu uyển chuyển và không thu hút.

Theo cổ nhân, người phụ nữ có đôi chân bé xíu khi đi đứng cũng sẽ uyển chuyển, quý phái và sang trọng hơn. Những bước chân nhẹ nhàng cũng khiến họ trở nên quyến rũ và thu hút mọi ánh nhìn. Sau này, nó còn trở thành một thước đo về phẩm hạnh của các cô gái. Vì thế mà người xưa mới quan niệm rằng: “Đàn bà xem chân”.

Có thể nói, câu “Đàn ông nhìn eo, đàn bà nhìn chân” phần nhiều đã không còn phù hợp với xã hội hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, dù trong xã hội nào đi chăng nữa, một gia đình hoàn hảo vẫn cần phải có sự cố gắng, nỗ lực từ cả hai bên. Mọi tiêu chuẩn chỉ phần nào đánh giá được con người họ mà thôi.