Theo quy định hiện hành, thì có 3 trường hợp dưới đây cơ quan nhà nước sẽ ra quyết định hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thường được gọi tắt là Sổ đỏ.
Sổ đỏ bị mất
Về trường hợp sổ đỏ bị mất, khoản 3 Điều 77 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định, khi thực hiện thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bị mất thì Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm lập hồ sơ trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký quyết định hủy Giấy chứng nhận bị mất, đồng thời cấp lại Giấy chứng nhận mới cho người dân.
Không nộp Giấy chứng nhận để làm thủ tục cấp sổ đỏ mới
Theo khoản 2 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, nếu người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng, cho quyền sử dụng đất trước 1.7.2014 mà bên nhận chuyển quyền chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền theo quy định nhưng chưa sang tên thì không thực hiện thủ tục đăng ký biến động mà thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận mới.
Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị thì Văn phòng đăng ký đất đai sẽ thông báo bằng văn bản cho bên chuyển quyền và niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã, nơi có đất về việc làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người nhận chuyển quyền.
Sau 30 ngày kể từ ngày thông báo hoặc đăng tin lần đầu tiên trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương mà không có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai lập hồ sơ để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp không nộp Giấy chứng nhận để làm thủ tục cấp mới.
Không giao nộp Giấy chứng nhận
Với những trường hợp không giao nộp Giấy chứng nhận thì Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp.
Theo khoản 7 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, những trường hợp đó bao gồm:
– Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh và thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử dụng đất có nghĩa vụ nộp Giấy chứng nhận đã cấp trước khi được nhận tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật đất đai.
– Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai và thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người thì người sử dụng đất nộp Giấy chứng nhận đã cấp trước khi bàn giao đất cho Nhà nước.
– Trường hợp cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp hoặc đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp Giấy chứng nhận.
– Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai như: Cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất…; thu hồi Giấy chứng nhận theo bản án hoặc quyết định của Toàn án Nhân dân đã được thi hành.